Trong những năm qua, căn cứ vào quy hoạch, chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cũng như chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam, các viện nghiên cứu thuộc Bộ Công Thương đã đầu tư chuyên sâu vào các lĩnh vực thiết kế, chuyển giao công nghệ qua đó đủ năng lực làm tổng thầu cho một số dây chuyền thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp quan trọng của đất nước.
Dấu ấn trên những công trình trọng điểm
Cách đây gần 10 năm, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1791/QĐ-TTg phê duyệt cơ chế thực hiện thí điểm thiết kế chế tạo trong nước thiết bị nhà máy nhiệt điện giai đoạn 2012 – 2025. Theo đó, Viện Nghiên cứu Cơ khí (Bộ Công Thương) được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các doanh nghiệp cơ khí trong nước để thực hiện thiết kế, chế tạo thiết bị các nhà máy nhiệt điện.
Hệ thống lọc bụi tĩnh điện tại nhà máy nhiệt điện Thái Bình 1
Vượt lên những khó khăn về điều kiện nghiên cứu, đến thời điểm hiện tại, nhiều đề tài khoa học đã ghi dấu ấn trên công trình trọng điểm. Tiêu biểu, đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tổ hợp và đưa vào vận hành hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than cho nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW”.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam đã nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tích hợp và đưa vào vận hành thành công hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than cho nhà máy nhiệt điện Sông Hậu 1 với tỷ lệ nội địa hóa đạt 50,6% và thiết bị tương đương với thiết bị công nghệ từ các nước G7, mở ra hướng phát triển mới cho ngành cơ khí chế tạo trong nước.
Gây tiếng vang không kém là Dự án “Hoàn thiện thiết kế và công nghệ chế tạo, chế tạo thử nghiệm lọc bụi tĩnh điện công suất 1.000.000 Nm3/h” đã ứng dụng thành công tại Nhiệt điện Vũng Áng 1 và Thái Bình 1 với tỷ lệ nội địa hóa hơn 70%. Hiện tại, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã được Tập đoàn Doosan (Hàn Quốc) tin tưởng trao hợp đồng cung cấp hệ thống lọc bụi tĩnh điện cho Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2 và dự kiến tiếp tục được giao thực hiện hợp đồng Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 2 trong năm 2022.
Đặc biệt, trong lĩnh vực thủy điện, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã được giao nhiệm vụ chủ trì tiếp nhận chuyển giao công nghệ phần thiết kế, chế tạo thiết bị cơ khí thủy công cho các công trình thủy điện theo Quyết định 797/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho dự án đầu tiên là thủy điện A Vương. Thành công của nhiệm vụ đã mang lại các hiệu quả kinh tế – xã hội cao, đóng góp vào thành công của phát triển ngành.
“Từ thành công của dự án đầu tiên, Viện đã cùng các đơn vị cơ khí trong nước tự lực trong việc thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công cho hơn 29 công trình thủy điện vừa và lớn trong nước trong đó có công trình thủy điện Sơn La (2400 MW) và Lai Châu (1200 MW)” – TS. Phan Đăng Phong – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí chia sẻ.
Đáng nói, sự thành công của các dự án đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho ngành cơ khí trong nước với doanh thu từ mảng việc này mang lại khoảng 8000 tỷ đồng, góp phần giảm giá thành sản phẩm từ 4,4 USD/1kg sản phẩm xuống còn 1,5 USD/1KG sản phẩm, góp phần phát điện sớm 03 năm với nhà máy thủy điện Sơn La và 01 năm với nhà máy thủy điện Lai Châu mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các dự án.
Chưa dừng lại ở đó, trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã đã tham gia thực hiện thành công tổng thầu EPCM cho 02 dự án Tân Rai và Nhân Cơ với công suất thiết kế 2 triệu tấn quặng tinh/năm. Trong đó, nổi bật là việc thiết kế và chế tạo đồng bố 02 tuyến băng tải với tổng chiều dài mỗi tuyến 5 km cho mỗi nhà máy.
Hiện nay các tuyến băng tải này đã bàn giao và đi vào vận hành đạt yêu cầu và được Chủ đầu tư cấp chứng chỉ nghiệm thu đưa vào sử dụng. Từ thành công của nhiệm vụ, các đơn vị trong nước tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ đã được các chủ đầu tư tín nhiệm, tiếp tục giao cho các dự án khác như: Nhà máy tuyển quặng Bảo Lộc 200.000 tấn/năm, Nhà máy tuyển Lâm Đồng 1.700.000 tấn/năm, Nhà máy tuyển quặng Nhân Cơ 1.700.000 tấn/năm…
Trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, Viện đã phối hợp với Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam thực hiện Dự án khoa học công nghệ quy mô lớn: “Nghiên cứu, thiết, chế tạo các thiết bị chủ yếu cho dây chuyền đồng bộ sản xuất ximăng lò quay công suất 2500 tấn clinke/ngày, thay thế nhập ngoại, thực hiện tiến trình nội địa hóa” với 03 đề tài (máy đóng bao tự động, thiết bị lọc bụi công suất lớn và điều khiển tự động dây truyền thiết bị nhà máy), đã áp dụng thành công vào dự án xi măng lò quay Sông Thao, đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 40% giá trị…
Cần ưu tiên cho đơn vị cơ khí trong nước
Đánh giá về xu hướng phát triển ngành thiết bị công nghiệp toàn bộ, TS. Phan Đăng Phong cho biết, theo Quyết định 319/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2035, mục tiêu là hình thành một số tổ hợp nhà thầu tư vấn và chế tạo có khả năng làm chủ công tác thiết kế, chế tạo nhóm thiết bị phụ, gói thầu EPC của các công trình công nghiệp.
Hệ thống thuyền xỉ tại nhiệt điện Nghi Sơn 2 |
Thực tế cho thấy, trong lĩnh vực dây chuyền thiết bị toàn bộ, dung lượng thị trường còn rất lớn. “Đơn cử như trong lĩnh vực thiết bị toàn bộ nhà máy nhiệt điện, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 129.500 MW, trong đó, nhiệt điện than khoảng 42,6%; nhiệt điện khí (kể cả LNG) 14,7%” – TS. Phan Đăng Phong dẫn chứng.
Theo số liệu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam, tính đến cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn hệ thống đạt 69.300 MW, trong đó, nhiệt điện than chiếm 41,6%, thủy điện 37,7%, khí 18,8%. Như vậy, tính đến năm 2030, đối với nhiệt điện than tăng từ 28.829 MW lên 55.167 MW. Nếu tính suất đầu tư trung bình 1,7 triệu USD/1W thì riêng nhiệt điện than trong nước sẽ đầu tư với tổng giá trị là 45.795 triệu USD.
“Chỉ tính riêng việc tự thực hiện được các thiết bị theo Quyết định 1791/TTg của Thủ tướng Chính phủ, giá trị trong nước có thể tự thực hiện được khoảng 30% giá trị chi phí phải bỏ ra bằng 13.737 triệu USD” – TS. Phan Đăng Phong nói, đồng thời cũng thông tin, đối với nhiệt điện khí tăng từ 13.028 MW lên 19.036 MW. Tính suất đầu tư trung bình 1.25 triệu USD/1MW thì riêng nhiệt điện khí trong nước sẽ đầu tư với tổng giá trị là 7.510 triệu USD.
Do đó, xu hướng một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn sẽ chi tiền đầu tư để sở hữu công nghệ thiết kế hệ thống, các thiết bị chính nhằm chiếm lĩnh và làm chủ thị trường thiết bị toàn bộ, từ đó chi phối chuỗi cung ứng toàn cầu bao gồm cả các thiết bị phụ trợ đi kèm. Như vậy, họ sẽ thu được lợi nhuận cao bằng việc thuê chế tạo một cách rẻ mạt từ các công ty trong chuỗi cung ứng, nhưng lại bán rất đắt cho chủ đầu tư vì là độc quyền.
“Đến thời điểm hiện tại, hầu hết các dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các ngành công nghiệp trong nước đều đang được cung cấp bởi nhà thầu nước ngoài, giá trị trong nước thực hiện đạt không quá 20%” – TS. Phan Đăng Phong nêu thực trạng.
Ví dụ, trong lĩnh vực nhiệt điện, hầu hết các dây chuyền thiết bị nhiệt điện tại Việt Nam hiện nay đều do nhà thầu nước ngoài cung cấp theo hình thức tổng thầu EPC, phần lớn là các nhà thầu Trung Quốc do họ có giá bỏ thầu rẻ và họ còn có khả năng thu xếp vốn.
Các công ty Trung Quốc khi trúng thầu hợp đồng EPC trong các dự án đã đem vào Việt Nam cả lao động phổ thông, các nguyên vật liệu thô, các vật tư, thiết bị mà Việt Nam đã hoàn toàn sản xuất được để thực hiện công việc. Như vậy, chúng ta đầu tư các dự án nhiệt điện, nhưng đã không tạo được công ăn việc làm cho các doanh nghiệp, người lao động trong nước mà lại tạo công ăn việc làm và doanh thu cho ngành cơ khí Trung Quốc.
Nguyên nhân các nhà thầu trong nước chưa được giao thiết kế, chế tạo, cung cấp thiết bị cho các dự án nhà máy công nghiệp được đầu từ trong nước gồm: Do tình hình huy động vốn đầu tư các dự án nhà máy nhiệt điện cần một lượng vốn lớn, nên các chủ đầu tư trong nước thường áp dụng thu thu xếp dự án hình thức ECA (Export Credit Agency).
“Như vậy, chỉ có nhà thầu nước ngoài mới đáp ứng được tiêu chí này và họ sẽ bao trọn gói từ thiết kế nhà máy, mua sắm thiết bị, xây dựng nhà máy, phía nhà thầu trong nước chỉ đảm nhận một phần kết cấu cơ khí theo thiết kế và hướng dẫn của họ” – TS. Phan Đăng Phong nhấn mạnh, đồng thời bày tỏ, việc cấp bách trong thời gian tới là các viện nghiên cứu, các đơn vị cơ khí chuyên ngành cần xây dựng các chương trình nghiên cứu, đầu tư tiềm lực khoa học và công nghệ để nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiến tới làm chủ việc thiết kế, chế tạo các dây chuyền thiết bị toàn bộ trong các lĩnh vực này.